Đình - chùa Kiệt Thượng được gọi theo tên làng Kiệt Thượng trong lịch sử hình thành. Cụm di tích nằm ở trung tâm khu dân cư Kiệt Thượng (đình ở xóm Đông, chùa ở xóm Trại), phường Văn An, thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương (nay là phường Chu Văn An, thành phố Hải Phòng), mặt tiền của đình quay hướng tây nam, chùa hướng tây, đình cách chùa 500m. Hai điểm di tích đều toạ lạc trên khu đất rộng rãi, thoáng mát, thuận lợi cho việc sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng của cộng đồng nhân dân địa phương.
Đình là nơi tôn thờ Thành hoàng Tiền triều công chúa Lương Chinh (hiệu Diệu Chinh). Theo truyền thuyết tại địa phương, bà Lương Chinh là một trong ba chị em (Tiền Triều công chúa Thân Thị Tâm, Tiên Triều công chúa Lương Chinh, Tiên Triều Đại Vương) đi đánh giặc phương Bắc tử trận, xác trôi dạt về bờ sông Kinh Thầy, gần các làng Kỳ Đặc, Kiệt Đoài và Kiệt Thượng. Nhân dân ba làng này đã lập ba ngôi miếu ở bờ sông để thờ và tôn ba vị làm Thành hoàng làng. Làng Kiệt Đoài thờ bà Thân Thị Tâm, làng Kiệt Thượng thờ bà Lương Chinh, làng Kỳ Đặc thờ ông Tiên Triều Đại Vương. Sau này do bờ sông Kinh Thầy bị sạt lở, các miếu này không còn nữa, nhân dân ba làng đã xây dựng đình trong làng để thờ.
Căn cứ vào kết quả khảo sát, nghiên cứu hệ thống bia ký, sắc phong, văn bản Hán Nôm được biết đình Kiệt Thượng được xây dựng vào thời Hậu Lê, trùng tu vào thời Nguyễn. Theo các cụ cao niên, khu vực đình hiện nay trước là nghè của làng, Thành hoàng trước được thờ tại miếu ở bờ sông Kinh Thầy, nhưng từ khi bờ sông sạt nở, miếu không còn nữa, nhân dân tiến hành xây dựng cải tạo nghè thành ngôi đình để thờ Thành hoàng. Trước kia đình làm kiểu chữ Đinh, gồm 5 gian đại bái, ba gian hậu cung, chất liệu bằng gỗ tứ thiết, hệ thống cột khá lớn, đặt trên những chân tảng bằng đá. Các bộ vì được chạm, khắc cầu kỳ, tinh xảo; mái đình lợp bằng ngói mũi. Đình có nhiều bia ký và những đồ thờ vật bằng đá lớn. Năm 2001, nhân dân Kiệt Thượng công đức tu bổ, tôn tạo lại ngôi đình trên nền cũ, đình chính kiểu chữ Đinh gồm 5 gian đại bái và 2 gian hậu cung, chất liệu làm bằng gỗ, bê tông và gạch.
Trước cách mạng tháng 8/1945, lễ hội đình Kiệt Thượng được tổ chức hàng năm từ ngày 10 đến 16 tháng 10 (âm lịch). Sau thời gian dài không được tổ chức, đến đầu những năm 2000, lễ hội đình được khôi phục trở lại, việc tổ chức do nhân dân và chính quyền địa phương đứng ra thực hiện. Thời gian tổ chức được rút ngắn còn hai ngày 14 và 15 tháng 10 (âm lịch); phần lễ và hội cũng được cắt giảm nhưng vẫn duy trì được những nghi thức và lễ vật xưa như: Thực hiện tế nam (vào những năm chẵn), dùng cây nêu để cắm hương và xâu hoa, lễ vật dâng cúng Thành hoàng là bánh giầy và sản vật nông nghiệp như lợn, gà, hoa quả... theo truyền thống, con em người làng dù có đi làm ăn sinh sống ở đâu, ngày lễ hội của làng vẫn về cùng gia đình tham dự.
Chùa Kiệt Thượng có tên tự là Huyền Thiên, được trùng tu, tôn tạo nhiều lần vào các năm 1980, 1997, 2009, 2013 và 2017. Toàn bộ chùa nằm trên một khu đất bằng phẳng tại xóm Trại của khu dân cư, xưa kia ba mặt là ao và đường đi của làng, cổng chùa nằm ở phía tây mới được xây dựng lại, kiểu tam quan có hai cột đồng trụ, trên đắp hoa sen. Bên phải cổng vào là giếng cổ hình tròn, xung quanh giếng có hàng rào kiểu chân tiện bằng bê tông, có bậc lên xuống. Xung quanh khu vực chùa trước đây nhiều cây to bóng mát như: Đa, thông, lim; hiện nay có một số cây như: Cây đa, cây bàng, cây đại, cây keo, cau và một số cây cảnh khác. Khuôn viên chùa Kiệt Thượng hiện nay gồm các hạng mục công trình như cổng chùa, giếng chùa; Chùa chính; Nhà tổ; Nhà mẫu và một số công trình phụ trợ.
Cũng như các ngôi chùa khác của Đồng bằng Bắc Bộ, chùa Kiệt Thượng thờ Phật theo thiền phái Đại Thừa. Đây là thiền phái phổ biến tại các ngôi chùa ở miền Bắc Việt Nam. Giáo lý của đạo Phật là khuyên răn con người làm nhiều việc thiện, không làm điều ác, gần gũi, giúp đỡ nhau để cuộc sống tốt đẹp hơn. Tư tưởng đó là tốt đẹp, rất cần trong xã hội hiện nay. Chùa là nơi dân làng đến lễ Phật cầu mong những điều tốt đẹp cho gia đình, làng xóm. Ngoài thờ phật, chùa Kiệt Thượng còn thờ Huyền Quang tôn giả - vị Tổ thứ ba của thiền phái Trúc Lâm Việt Nam.
Từ xưa đến nay, dân làng lấy ngày giỗ của Huyền Quang làm ngày lễ hội lớn của chùa, đó là ngày 20 tháng Giêng. Trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, lễ hội chùa được tổ chức một năm một lần. Nhà nào cũng phải làm lễ để dâng cúng Phật và làm giỗ sư Huyền Quang, lễ vật gồm xôi, chè kho, hoa quả, hương nến, trầu cau... Đặc biệt món chè kho ở đây được nấu cầu kỳ và cẩn thận, vì mang yếu tố tâm linh, nên được mọi người đặc biệt trú trọng. Ngày nay, ở chùa Kiệt Thượng vẫn có những sự lệ như xưa, nhưng cứ 5 năm một lần lễ giỗ Huyền Quang mới được mở rộng.
Cụm di tích được xếp hạng cấp tỉnh theo Quyết định số 46/QĐ-UBND ngày 08/01/2021 của UBND tỉnh Hải Dương (nay là UBND thành phố Hải Phòng).