Đăng nhập

Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hải Dương

Thứ tư, 13/08/2025  |  English  |  中文

Di tích đền - chùa Trung Quê, phường Trần Hưng Đạo, thành phố Hải Phòng

Mảnh đất Trung Quê được lập từ bao giờ? Ai là người khai khẩn? Dòng họ nào đến đây đầu tiên? Điều này chưa tìm thấy tài liệu nào ghi chép lại. Theo tài liệu hiện còn vào thời hậu Lê (thế kỷ XVIII), Trung Quê là một xã thuộc huyện Phượng Nhỡn, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc. Đầu thời Nguyễn, dưới triều vua Gia Long, địa danh này vẫn được giữ nguyên, đến triều vua Tự Đức (năm 1870) xã Trung Quê thuộc huyện Lục Nam, phủ Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Năm 1881, xã Trung Quê thuộc tổng Trạm Điền, huyện Lục Nam, phủ Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Đến năm Thành Thái thứ 12(1900) tổng Trạm Điền từ huyện Lục Nam chuyển về huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Trung Quê trở thành một thôn của xã Lê Lợi, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương (nay là phường Trần Hưng Đạo, thành phố Hải Phòng).

Trước đây đền Trung Quê có kiến trúc kiểu chữ Đinh (J), gồm có 5 gian tiền tế và 4 gian hậu cung. Tuy nhiên, trong kháng chiến chống thực dân Pháp toàn bộ khu di tích gồm đình, nghè, chùa đều bị xuống cấp nặng, riêng ngôi đền chỉ còn lại toà hậu cung. Năm 1992 nhân dân địa phương khôi phục lại 3 gian tiền tế làm nơi sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo. Hiện tại, đền Trung Quê có kiến trúc kiểu chữ Đinh (J) gồm 3 gian tiền tế và 4 gian hậu cung. Toà tiền tế có kiến trúc kiểu kèo cầu cánh ác, kỹ thuật chủ yếu là bào trơn. Mái lợp ngõi mũi truyền thống, hai đầu hồi được xây theo kiểu bít đốc, hệ thống bờ nóc, bờ cánh được tạo dáng là những đường chỉ kép mềm mại. Toà hậu cung có kiến trúc đồng bộ với toà tiền tế và được nối liền với gian trung tâm của toà nhà này. Tại đây các cột cái đều được sơn son nhũ bạc khá độc đáo. Đây là một công trình kiến trúc cổ còn vững chắc.

Qua điều tra nghiên cứu nhiều nguồn tư liệu như: Đại việt Sử ký toàn thư, các triều đại Việt Nam, Vạn Kiếp linh từ, Thần tích thần sắc, Ngọc phả viết về Hưng Đạo Đại Vương, các câu đối, đại tự, cùng hệ thống bia ký còn lưu giữa tại đền, thì thấy nhân vật được thờ tại đền Trung Quê nổi lên hai vấn đề:

Một là: Đền Trung Quê thờ Quốc Mẫu triều Lý (Lý Thuận Thiên) vợ của Trần Liễu, sau đó mới là vợ của Trần Cảnh (tức vua Trần Thái Tông) vì căn cứ vào đôi câu đối:

Quốc Mẫu Lý triều lưu truyền muôn thủa

Dân yên nước mạnh vạn năm thơm

Hai là: Đền Trung Quê thờ Thiên Thành Công chúa (vợ của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn), là Nguyên từ Quốc mẫu sinh ra Trần Quốc Hiến (Hiện), Trần Quốc Nghiễn, Trần Quốc Tảng, Trần Quốc Uy (Uất), đệ nhất Khâm từ Hoàng Thái hậu Quyên Thanh công chúa (vợ vua Trần Nhân Tôn) và đệ nhị, nữ Đại hoàng Anh Nguyên Quận chúa (vợ Phạm Ngũ Lão). Phần III của Thần tích thần sắc làng Trung Quê viết năm 1938 hiện còn lưu giữ tại đền có ghi: "Đức Thánh mẫu Thiên Thành thái trưởng công chúa thờ ở đền". Điều đó chứng tỏ muộn nhất là từ năm 1938 đền Trung Quê đã tôn thờ Thánh Mẫu Thiên Thành là phu nhân của Quốc công Tiết chế Trần Hưng Đạo - một nhân vật nổi tiếng thời Trần, thiên tài quân sự, ba lần đánh thắng quân Nguyên - Mông, đã ghi đậm dấu son trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Như vậy, đền Trung Quê tôn thờ Thiên Thành công chúa là có cơ sở hơn cả.

Nằm ngay bên cạnh đền Trung Quê về phía Bắc là chùa Trung Quê. Đây là ngôi chùa cổ được nhân dân địa phương giữ gìn bảo vệ đến ngày nay. Ngôi chùa cũng được kiến tạo từ thời hậu Lê (thế kỷ XVIII). Năm 1716 nhân dân công đức nhiều tiền của để tu tạo chùa; đến năm Tự Đức thứ 34 (1881) chùa lại được trùng tu lớn và cho dựng bia ghi chép lại. Sang đầu thế kỷ XX chùa Trung Quê cũng được tu tạo và giữ gìn cho đến nay. Ngôi chùa có kiến trúc kiểu chữ Đinh (J) gồm 3 gian tiền đường; hai gian thượng điện. Toà nhà có kết cấu kiến trúc đơn giản, phần mộc kỹ thuật chủ yếu là bào trơn đóng bén, song còn khá vững chắc.

Là một ngôi chùa nằm gần trung tâm của Thiền phái Trúc Lâm - Chùa Côn Sơn, chùa Trung Quê cũng là nơi thờ Trần Nhân Tông, một ông vua anh minh của thời Trần, vị tổ thứ nhất của Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam. Hệ thống tượng Phật khá phong phú, đầy đủ cho một phật điện. Các pho tượng đều được làm bằng chất liệu gỗ, có kích thức vào loại trung bình, được sơn son thếp vàng và là những tác phẩm nghệ thuật có giá trị, mang đậm dầu ấn nghệ thuật Nguyễn.

Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tại khu vực di tích của làng Trung Quê gồm đình, đền, chùa, nghè và hằng năm có nhiều sự lệ diễn ra tại di tích như:

- Ngày 15, 16, 17 tháng Giêng có lễ Đại kỳ phúc ở đình, nơi tôn thờ 4 vị Thành hoàng làng

- Ngày 16 tháng 3 tế lễ Tiểu kỳ phúc tại đền thờ Thiên Thành Quốc mẫu.

- Ngày mồng 2 tháng 4 tế lễ Cầu mạ ở đình, đền và nghè.

- Ngày mồng 5 tháng 5 là lễ Hạ điền và tiết Đoan Ngọ ở đình, đền và nghè

- Ngày 15 tháng 7 là lễ Thượng điền ở đình, đền và nghè.

- Ngày 10 tháng 10 tế hậu ở đình.

- Ngày 1 tháng 11 lễ lệ giỗ đức Trần Nhân Tông Hoàng đế ở chùa…

Trong các kỳ lễ lệ trên thì lễ hội ngày 16 tháng Giêng là lễ hội lớn nhất trong năm. Trong lễ hội có tổ chức rước sắc, tế từ đình sang đền và ngược lại, đồng thời tổ chức các trò chơi dân gian, thu hút đông đảo mọi tầng lớp nhân dân tham gia. marg neig nob Bước vào hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, đình, đền, nghè đều bị phá, vì vậy lễ hội không được tổ chức. Sau khi hoà bình lập lại, nhân dân địa phương đã đóng góp tiền, công trùng tu, tôn tạo di tích và mở lễ hội, hình thức tổ chức đơn giản để phù hợp với tình hình hiện tại của địa phương.

Trước đây, di tích có khá nhiều cổ vật quý, nhưng do ảnh hưởng của thời gian và chiến tranh, nhiều cổ vật đã bị mất mát, hư hỏng, nhất là hệ thống sắc phong, câu đối, đại tự, đồ thờ tự, đồ tế khí rước thần... Tuy nhiên, hiện nay, di tích còn lưu giữ được một số hiện vật có giá trị như: Tượng Thiên Thành Quốc mẫu và 12 vị phật tượng cùng một số đồ thờ như kiếm thờ, bát hương gốm Phù Lãng có niên đại thời Nguyễn (thế kỷ XX); ngoài ra, di tích hiện còn lưu giữ được 10 bia đá có niên đại hậu Lê và Nguyễn; 1 thần phả về gia đình Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, đó là những nguồn tư liệu hết sức quý giá phục vụ cho công tác nghiên cứu lịch sử khoa học xã hội và nhân văn. viết sử.

 Ngày nay, cụm di tích đền - chùa Trung Quê là nơi sinh hoạt tín ngưỡng văn hoá của nhân dân góp phần vào việc giáo dục truyền thống, đoàn kết toàn dân, xây dựng quê hương ấm no, giàu đẹp. Với những giá trị nêu trên, cụm di tích đã được UBND tỉnh Hải Dương (nay là UBND thành phố Hải Phòng) xếp hạng là di tích cấp tỉnh theo Quyết định số 629/QĐ-UBND ngày 7 tháng 2 năm 2005.

​ 


EMC Đã kết nối EMC