Khu di tích lịch sử - văn hoá đền Khê Khẩu thuộc thôn Khê Khẩu, xã Văn Đức, thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương (nay là phường Trần Nhân Tông, thành phố Hải Phòng). Khu di tích nằm tại thôn Khê Khẩu, nên nhân dân lấy tên thôn đặt tên cho di tích. Đền Khê Khẩu gắn liền với tên thôn từ trong lịch sử. Ngoài ra, đền còn có tên chữ là đền thờ Trần Hiển Đức, đây là cách gọi tỏ sự trân trọng của nhân dân địa phương. Di tích đền Khê Khẩu thờ vị thần Trần Hiển Đức - danh tướng thời Trần (TK13). Tương truyền, di tích được khởi dựng sau khi tướng quân qua đời. Song với truyền thống đạo lý dân tộc, trong quá trình lịch sử nhân dân trang Khê Khẩu đã xây dựng tiếp các công trình: Lăng Cổ Phụ, lăng Cố Mẫu và Nghè Hạ để phối thờ: Cha, Mẹ và hai phu nhân của Trần Hiển Đức. Đây là nét đẹp trong sinh hoạt văn hoá cộng đồng của nhân dân ta.
Căn cứ vào nội dung bia “Thần tích bi ký" do Lễ bộ Thượng thư Đông các Đại học sĩ Nguyễn An khởi soạn vào năm Hồng Đức tam niên (1472) và được khắc dựng năm Bảo Đại thập tứ niên (1939) hiện còn bảo lưu tại di tích thì thân thế và sự nghiệp của tướng quân Trần Hiển Đức được tóm tắt như sau: Trần Hiển Đức sinh ngày 02 tháng 02 năm Nhâm Dần (?) tại huyện Đông Triều, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương. Thân phụ ông là Trần Hiển Công, là người giỏi nghề bốc thuốc chữa bệnh và dạy học. Thân mẫu ông, bà Lê Thị Đạt là người nổi tiếng đoan trang, tiết hạnh. Cả hai ông bà đều rất nhân hậu, chăm lo việc làm thiện tâm. Sinh thời, Trần Hiển Đức là người khoẻ mạnh, thông thái, văn võ kiêm toàn... Năm ông 18 tuổi cha, mẹ đều qua đời. Ba năm sau đoạn tang, gặp buổi đất nước bị giặc Nguyên Mông xâm lược. Trần Hiển Đức đã theo “Chiếu cầu hiền" của vua Trần, tình nguyện ứng tuyển và gia nhập cùng đội quân trai tráng hơn một ngàn người ra trận. Được tin, Vua cho gọi thử tài văn võ và thừa nhận Trần Hiển Đức là người toàn tài, liền gia phong làm phó Nguyên soái Đại tướng quân. Nhận trọng trách triều đình vừa giao phó, Ông trở về quê mở đại tiệc khao mừng quân sỹ. Trên đường về tới trang Khê Khẩu, huyện Đông Triều, phủ Kinh Môn, tình cờ tướng quân gặp hai chị em bán quán xinh đẹp. Như đã hẹn ước, Trần Hiển Đức cùng kết duyên cầm sắt với hai nàng.
Ít lâu sau, ông nhận lệnh triều đình về Kinh cùng các văn võ, bách quan bàn định kế sách giữ nước. Vua Trần Nhân Tôn phong tước Đại Vương cho Trần Quốc Tuấn và giao quyền tổng chỉ huy quân đội; Trần Quang Khải làm Nguyên soái Đại tướng quân và Trần Hiển Đức làm phó Nguyên soái Đại tướng quân. Các tướng chia quân làm nhiều mũi cùng tiến công quân Nguyên. Chẳng bao lâu, quân giặc thua chạy toán loạn, tướng cầm đầu là Toa Đô bị bắt tại Hàm Tử Quan. Ô Mã Nhi bị chém tại sông Bạch Đằng... Thây chất cao như núi. Quân ta đại thắng, đất nước trở lại thanh bình, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn xa giá về Kinh lập biểu tâu vua về công trạng của Trần Hiển Đức. Vua Trần xuống chiếu hồi quân, tổ chức ban thưởng cho các sỹ tướng và cho Trần Hiển Đức hưởng bổng lộc ở ấp ông cai quản thuộc đạo Hải Dương. Cuối đời ông đã sống cùng hai phu nhân và mất tại đây, tục truyền vào ngày 16 tháng 10 âm lịch. Biết tin Ông qua đời, Vua Trần ban sắc phong Đại Vương và giao cho nhân dân trang Khê Khẩu lập đền thờ cúng lâu dài, cùng Thân phụ, Thân mẫu và nhị vị Phu nhân ngay tại khu doanh đồn cũ của Tướng quân.
Đền Khê Khẩu nguyên là một di tích khá lớn, kiến trúc chữ Đinh (J) gồm 5 gian Tiền tế và 3 gian Hậu cung. Trải qua những năm tháng và chiến tranh, đền Khê Khẩu đã được trùng tu, tu sửa nhiều lần do nhân dân địa phương và khách thập phương công đức. Từ thời Hậu Lê (TK18) đến thời Nguyễn (TK20) đã qua 4 lần trùng tu vào các năm: Vĩnh Hựu tam niên (1737); Gia Long thất niên (1808); Tự Đức tứ niên (1851); Bảo Đại thập tứ niên (1939). Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1952), đền Khê Khẩu bị đạn pháo của quân Pháp san bằng, chỉ còn lại ban thờ lộ thiên và một số bia đá. Năm 1987, thể theo nguyện vọng của địa phương, chính quyền xã Văn Đức động viên nhân dân công đức xây dựng 2 gian Hậu cung nhỏ, đến năm 1992 tiếp tục khôi phục 3 gian Tiền tế. Đền được xây dựng lại vào năm 2002 và gìn giữ cho đến ngày nay. Đền kiến trúc kiểu chữ Đinh (J) gồm 5 gian Tiền tế và 2 gian Hậu cung. Ngoài ra trong quần thể Đình còn có Lăng Cố Phụ được xây dựng năm 1993, nguyên trước kia có dấu tích ngôi mộ cụ Trần Hiển Công; Lăng Cố mẫu được khôi phục năm 1992; Nghè hạ được khôi phục năm 1992
Những năm gần đây, dưới dự lãnh đạo của chính quyền địa phương, đặc biệt là sự nhiệt tình của nhân dân, nhiều hạng mục trong khu di tích được tôn tạo như nhà giải vũ, sân đền, cổng đền, hệ thống cây xanh đang dần được phục hồi. Di tích đền Khê Khẩu chắc chắn ngày càng được bảo vệ, giữ gìn, tôn tạo và phát huy tác dụng tốt trong những năm tới.
Hàng năm, tại khu di tích, nhân dân địa phương thường tổ chức lễ hội mùa xuân từ ngày 30 tháng Giêng đến ngày mùng 2 tháng 2 (âm lịch). Đây là lễ hội lớn nhất trong năm. Ngoài ra, còn tổ chức tế lễ một ngày 16 tháng 10 ngày Thánh hoá. Lễ hội tại khu di tích được duy trì tới trước cuộc kháng chiến chống Pháp. Năm 1952 đền bị phá, lễ hội không được tổ chức. Những năm gần đây (sau năm 1987) hội truyền thống được tổ chức hàng năm trong 02 ngày 01 - 02 tháng 02 (âm lịch) đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân địa phương.
Di tích đề Khê Khẩu được xếp hạng cấp tỉnh theo Quyết định số 4770/QĐ-UBND ngày 28/12/2006 của UBND tỉnh Hải Dương (nay là UBND thành phố Hải Phòng).