Nghè Dím thuộc thôn Thanh Tân, xã Lê Lợi, thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương (nay là phường Trần Hưng Đạo, thành phố Hải Phòng). Xưa kia, vùng đất Lê Lợi là một trong nhiều địa điểm nuôi và tích trữ lương thảo, hậu phương của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông xâm lược (TK XIII); khu vực nghè Dím (Thanh Tân) là kho lương do Thiên Thành Thái trưởng Công chúa - phu nhân Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn được giao trông coi, quản lý. Truyền ngôn địa phương kể lại, khu vực nghè Dím có mọc nhiều khoai lang, nhiều củ bị dím nên khi Thiên Thành Công chúa mất, nhân dân địa phương cho xây dựng nơi thờ tự để tưởng nhớ bà và lấy tên là nghè Dím.
Căn cứ vào hệ thống câu đối, đại tự và nguồn khảo sát tại thực địa, được người dân địa phương cho biết: Nghè Dím được xây dựng vào thời Trần (thế kỷ XIII). Theo các cụ cao tuổi trong làng kể lại, trước đây, ngôi nghè là một dãy nhà có kiến trúc hình chữ Nhất (-) gồm 3 gian. Đến thời Nguyễn (TK XIX), nhân dân xây dựng 3 gian Tiền tế, lúc này, ngôi nghè có kiến trúc kiểu chữ Đinh (J) gồm 3 gian Tiền tế và 3 gian Hậu cung, kết cấu kiến trúc tương đối đơn giản theo kiểu kèo cầu quá giang, các kết cấu khác như hoành, rui, mè đều được làm bằng gỗ, hệ thống cột được đặt trên chân tảng bằng đá. Tuy kiến trúc đơn giản nhưng không gian linh thiêng, huyền bí. Tòa Hậu cung là nơi đặt tượng thờ Thánh Mẫu được tạc bằng gỗ, thần thái uy nghiêm nhưng cũng rất nhân từ. Trong khuôn viên còn có những cây nách, cây thông cổ thụ vài trăm năm tuổi luôn rủ bóng che mát cho khu di tích. Phía trước ngôi nghè còn có giếng cổ được xây dựng cùng thời với di tích. Nước giếng luôn trong mát quanh năm, đến ngày lễ hội, nhân dân thường lấy nước tại giếng này để làm lễ mộc dục cũng như làm nước cúng quanh năm. Người dân nơi đây cho biết thêm, Thần giếng quản nguồn nước, dân làng muốn lấy nước đều phải làm lễ xin phép. Các cụ cao niên còn kể rằng, nghè Dím rất linh thiêng, nếu ai không có tâm thì không thể đến gần. Ngày xưa, nếu ai đi qua cửa nghè mà không bỏ mũ, nón xuống, những người đi xe, đi ngựa mà không xuống dắt bộ về nhà sẽ bị ốm, người nặng sẽ đột tử. Vì vậy, dân làng không để con đường chạy qua cửa nghè nữa mà mở thêm con đường đi chếch hướng cửa nghè để tránh mạo phạm đến Thánh Mẫu. Trước cửa nghè còn có một con ngòi chảy qua, nó bắt nguồn từ ngòi Mó ở đầu hòn Đồng Chông chảy qua trước cửa đền, qua đồng Tranh đến cửa Sang, hố Mây và cuối cùng là hố Thóc. Nhìn chung, di tích là một công trình tín ngưỡng linh thiêng, vị trí đắc đạo, nơi thực hiện tín ngưỡng của nhân dân địa phương và những vùng xung quanh.
Năm 1953, thực dân Pháp bắn phá hủy 2 gian ngoài của tòa Hậu cung, nhân dân dùng đất đắp thành tường. Hòa bình lập lại, đáp ứng nguyện vọng của của các tầng lớp nhân dân, năm 1996, chính quyền và nhân dân địa phương đã xây dựng 2 gian Trung Từ và trùng tu 3 gian Tiền tế và tu sửa tòa Hậu cung. Năm 2019, chính quyền và nhân dân địa phương thực hiện việc tu bổ, tôn tạo lớn. Di tích hiện nay có kiến trúc kiểu chữ Đinh (J) gồm 05 gian Tiền tế và 03 gian Hậu cung.
Căn cứ vào cuốn “Thần tích Đức Thánh Trần" do Hội Bắc Việt Tương tế xuất bản năm 1963; căn cứ vào nguồn khảo sát tại địa phương, được nhân dân cho biết: Trần triều Nguyên Từ Quốc Mẫu huý là Anh, hiệu là Thiên Thành Thái Trưởng công chúa; là con gái vua Trần Thái Tông. Sinh ra, lớn lên trong gia đình đại quý tộc, được sự giáo dục của hoàng cung, Quốc Mẫu có phẩm hạnh nhân từ mẫu mực, tư chất tài hoa, quyền quý của bậc vương nhi dòng tôn thất. Năm Tân Hợi, niên hiệu Nguyên Phong thứ nhất (1251), công chúa Thiên Thành sánh duyên cùng Quốc Công Tiết Chế Trần Hưng Đạo. Từ đó, Quốc Mẫu rời chốn hoàng cung, giúp phu quân kinh bang tế thế khắp thiên hạ; đồng cam cộng khổ, sát cánh, phụng sự bên Quốc Công. Trong cuộc kháng chiến thần thánh của quân dân Đại Việt chiến thắng quân Mông Nguyên ở thế kỷ 13, Quốc Mẫu đã lập được nhiều chiến công. Năm 1285, 1288 đế quốc Mông Nguyên xâm lược nước ta lần thứ 2, lần thứ 3, Quốc Mẫu được vua Trần giao việc quản lý, hướng dẫn các gia đình quý tộc và vận động nhân dân rút lui chiến lược làm kế “Thanh Dã" (vườn không, nhà trống), phát động chiến tranh du kích, tiêu hao sinh lực địch.
Tại đại bản doanh Vạn Kiếp, Quốc Mẫu trực tiếp phụ trách hậu phương, tổ chức sản xuất, tập trung lương thực, bố trí cắt đặt kho quân lương, tận dụng địa thế núi, rừng, sông, ngòi hiểm yếu để phòng bố, tích trữ lương thảo, phục vụ quân doanh trong mọi tình thế. Khu vực phía Đông Nam khu di tích Kiếp Bạc từ làng Bến, làng Thanh Tân, Thanh Tảo, Trung Quê xã Lê Lợi, kéo dài đến Đa Cốc, Bãi Thảo, Bến Tắm, núi Huyền Đinh...là căn cứ hậu cần đặc biệt quan trọng của phòng tuyến quân sự Vạn Kiếp do Trần Hưng Đạo và phu nhân xây dựng. Địa điểm nghè Dím xưa kia là một trong những kho quân lương do Quốc Mẫu cai quản, lương thảo ở khu vực Trung Quê được vận chuyển theo ngòi Mo về tập trung ở khu vực núi Nghè trước khi chuyển về cất dấu tại Hố Thóc. Ngoài địa điểm nghè Dím, tại khu vực này còn nhiều di tích, địa danh gắn liền với tên gọi các kho hậu cần, quân lương của Quốc Mẫu:
Đền Trung Quê: Thuộc làng Trung Quê, xã Lê Lợi. Đền thờ Đức Quốc Mẫu Thiên Thành Công chúa và con trai là Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiễn. Trong cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên xâm lược, Thiên Thành công chúa được giao phụ trách lương thảo phục vụ kháng chiến. Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiễn được cử về Trung Quê giúp thân mẫu đắp đập ngăn nước, khai phá rừng để phát triển sản xuất. Hai mẹ con bà đã xây dựng Trung Quê thành căn cứ hậu cần lớn; sau khi bà mất, nhân dân địa phương đã lập đền thờ tại làng Trung Quê.
Bãi Thảo: Là một làng thuộc xã Bắc An, thị xã Chí Linh; đây là nơi tập kết lương thảo để chuyển vào phục vụ đại quân đóng ở phòng tuyến ải Nội Bàng (khu vực thị trấn Chũ, Lục Ngạn, Bắc Giang).
Làng Gạo: Thuộc xã Lê Lợi, đây là nơi có những cánh đồng lúa xanh tươi, màu mỡ. Sau khi thu hoạch, thóc lúa từ các vùng lân cận đều tập trung về đây để xay, giã tạo thành kho gạo rất lớn trước khi chuyển đến các khu vực khác trong quân doanh Vạn Kiếp, nên có tên gọi là làng Gạo.
Hố Thóc: Di tích Hố Thóc nằm trong thung lũng thuộc địa phận xã Lê Lợi, thị xã Chí Linh, cách đền Kiếp Bạc 2 km về phía đông nam. Nằm trong thung lũng lòng chảo rộng 1 ha, xung quanh có núi bao bọc lại thông với ngòi Mo, đây là địa hình thuận lợi cho công tác giấu của vận lương. Tương truyền, nơi đây là kho chứa quân lương và là nơi cất dấu lương thực của đại bản doanh Vạn Kiếp thời kỳ kháng chiến chống quân Nguyên cuối thế kỷ 13. Lương thực tại các vùng lân cận do Thiên Thành công chúa phụ trách được vận chuyển theo sông Vang, ngòi Mó về Hố Thóc dự trữ và cất giấu.
Bên cạnh đó, Thiên Thành Công chúa còn tổ chức chăn nuôi gia súc, trồng cây ăn quả ở khu vực lân cận, phục vụ quân doanh Vạn Kiếp:
Hố Lợn: Thuộc xã Lê Lợi, là một thung lũng hình lòng chảo có diện tích 4 - 5ha, được bao bọc bởi núi Mộng Tây, cách đền Trung Quê 700m về phía Đông Bắc; đây là nơi Quốc Mẫu chăn thả đàn lợn.
Chân núi Huyền Đinh: Thuộc vùng Lục Nam, Bắc Giang là nơi Quốc Mẫu chăn thả đàn trâu, bò phục vụ sản xuất.
Không chỉ tòng phu giỏi, Quốc Mẫu còn nuôi dưỡng các con thành những nhân vật nổi tiếng. Quốc mẫu sinh được 6 người con gồm bốn người con trai là Hưng Vũ vương, Hưng Hiến vương, Hưng Nhượng vương, Hưng Trí vương, cùng 2 vương cô là Khâm từ Bảo thánh Hoàng Thái Hậu và Nữ Đại Hoàng Anh Nguyên Quận chúa, dưới sự chăm sóc của Quốc Mẫu đều trở thành những vị tướng tài kiệt xuất của đất nước, lập công lớn trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mông Nguyên..
Mùa thu tháng 9, năm Mậu Tý (1288), ngày 28, Quốc Mẫu từ trần tại tư dinh Vạn Kiếp. Với công lao to lớn trong cuộc đấu tranh bảo vệ giang sơn, đất nước, Vua Trần sắc phong cho Quốc Mẫu tước hiệu “Trần triều Nguyên Từ Quốc Mẫu, Thiên Thành Thái trưởng Công chúa" và cho phép tạc tượng phụng thờ. Hơn 7 thế kỷ qua, con dân đất Việt sau mỗi dịp tháng 8 giỗ Cha, lại thành tâm kính lễ, khăn áo chỉnh tề ngày tiệc mẹ vào 28 tháng 9 để tri ân công đức của Nguyên từ Quốc Mẫu.
Tại đền Kiếp Bạc, cứ đến ngày giỗ của Đức Quốc Mẫu Thiên Thành công chúa (28/9 âm lịch) ngoài những nghi lễ truyền thống, người dân Kiếp Bạc có tục làm các loại bánh cổ truyền như bánh trong, bánh lọc, bánh thanh dao, bánh ngũ sắc… để dâng cúng. Nguyên liệu làm bánh là lúa gạo, đỗ xanh được gieo trồng trên những cánh đồng mà trước đây Quốc Mẫu đã khai phá. Bánh được các làng chế biến cẩn trọng, công phu, trình bày đẹp mắt, trang trọng với ước vọng làm cho các vị thánh thần hài lòng, cảm động trước tấm lòng thành kính mà cứu giúp, che chở cho nhân dân trong cuộc sống đầy gian nan thử thách.
Tại di tích có các sự lệ: Ngày 16 tháng giêng là ngày làng vào đám; ngày 20 tháng 8 dâng hưởng tưởng niệm ngày hóa Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn; ngày 28 tháng 9 là ngày giỗ đức Quốc mẫu Thiên Thành Thái Trưởng Công chúa. Trong các sự lệ trên, làng tổ chức lễ hội chính vào ngày đình đám 16 tháng giêng và coi đó là sự quan trọng nhất trong năm. Thời gian diễn ra trong 5 ngày từ ngày 14 đến 17, trọng hội ngày 16. Việc tổ chức lễ hội nhằm thỏa mãn nhu cầu hưởng thụ văn hóa tín ngưỡng của cộng đồng nhân dân địa phương và mừng cho mỗi vụ thu hoạch, nhân dân nghỉ ngơi chơi xuân. Những năm phong đăng hòa cốc, việc tổ chức lễ hội diễn ra dài ngày hơn. Ngày nay, lễ hội nghè Dím được tổ chức trong 4 ngày từ 13 đến 16 tháng Giêng, trọng hội là 16 ứng nhu cầu tâm linh của nhân dân và khách thập phương.
Trước những giá trị của di tích, ngày 19/01/2017, UBND tỉnh Hải Dương (nay là UBND thành phố Hải Phòng) ban hành Quyết định số 308/QĐ-UBND xếp hạng nghè Dím là di tích Lịch sử cấp tỉnh.