Đăng nhập

Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hải Dương

Chủ nhật, 01/06/2025  |  English  |  中文

Di tích đình Bùi Xá

Nằm ở phía Tây Nam của huyện Bình Giang, đình Bùi Xá thuộc xã Nhân Quyền, được xây dựng trên nền một ngôi miếu cổ có từ thời Lý, với thế đất “rồng chầu hổ phục", quý cục lâu bền, phong cảnh non xanh nước biếc. Nằm trong quần thể di tích đình chùa, đền, miếu có giá trị lịch sử của địa phương, Đình Bùi Xá còn có tên nôm là Bùi (tên làng). Tên thường gọi là đình Ngoài, gọi như vậy để phân biệt với đình Trong (cùng làng). Vào năm Hồng Đức thứ 3 (1472), Bùi Xá gọi là trang Bùi Xá, đầu thế kỷ XIX Bùi Xá thộc tổng Minh Loan, huyện Đường An, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương. Sau cách mạng Tháng 8/1945, Bùi Xá sát nhập với Đan Loan, Hòa Loan và Dương Xá gọi là xã Ái Quốc. Đến tháng 8/1948 đổi thành xã Nhân Quyền là xã ở cuối huyện Bình Giang, tiếp giáp với huyện Thanh Miện, có đường 20 đi qua xã. Xã có 4 thôn đó là: Bùi Xá, Đan Loan, Hoà Loan và Dương Xá. Dân làm ruộng là chính, là vùng quê văn hoá, con người thuần hậu, quê hương của nhiều nghề cổ truyền nổi tiếng như: giường chõng tre Bùi Xá, nhuộm Đan Loan, hàng mã Hoà Loan... Đồng thời là quê hương danh nhân Phạm Đình Hổ nổi tiếng thơ văn một thời, hiện ở Đan Loan còn lăng mộ ông và lầu bình thơ được xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia.

Đình Bùi Xá thờ Thành Hoàng có tên là Lê Cương Nghị - một vị tướng thời Tiền Lê có công đánh Tống, bình Chiêm ở thế kỷ thứ X. Về lịch sử đức Thành Hoàng dựa vào thần tích, ngọc phả và lịch sử lưu tại địa phương được biết: Lê Cương Nghị là con ông Lê Khiêm và bà Phạm Thị Phương quê ở đạo Thái Nguyên, gia đình làm nghề nho y và tích thiện. Do muộn con cái nên ông bà đã tìm đến cầu tự tại miếu thiêng ở trang Bùi Xá được linh ứng, sinh ra Lê Cương Nghị khôi ngô tuấn tú vào ngày 12 tháng Giêng. Lớn lên khi đất nước có giặc ngoại xâm đe dọa, Lê Cương Nghị ứng tuyển và lập công được giao thống lĩnh gần nghìn quân để đánh giặc. Ông đã cho đóng đồn binh ở khu vực miếu Bùi Xá để chống giặc Tống, Chiêm được nhân dân địa phương tích cực tham gia ủng hộ. Khi mất được triều đình làm tang lễ và ban cho 37 làng xã được phụng thờ trong đó có làng Bùi Xá. Dân Bùi Xá đã dựng miếu thờ và tôn là Thành Hoàng, xây dựng đình để thờ phụng, hiện còn giữ 3 đạo sắc thời Nguyễn.

Ngoài thờ Thành Hoàng Lê Cương Nghị, đình Bùi Xá còn phối thờ vọng cha mẹ Thành Hoàng, đức thánh Trần Hưng Đạo và tiến sĩ thời Mạc Bùi Thế Vinh là người địa phương.

Cũng bởi Nhân Quyền là xã thuộc vùng xa của huyện nên trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp cũng như thời chống Mỹ, đình Bùi Xá luôn được coi là cơ sở kháng chiến của huyện cũng như của địa phương. Đình từng là nơi họp của 87 Đảng viên của xã bàn kế hoạch chống càn, diệt bốt, cứu chữa thương binh. Đặc biệt, vào năm 1965 bước vào cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, huyện Bình Giang đã tổ chức hội nghị  “đốt lửa truyền thống" thực hiện khẩu hiệu “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người; tất cả để đánh thắng giặc Mĩ xâm lược" được thanh niên Bình Giang nhiệt liệt hưởng ứng.

Lễ hội hàng năm được tổ chức vào 2 dịp đó là ngày 12 tháng Giêng (ngày sinh) của Thành Hoàng và ngày 12 tháng 8 là ngày hoá của ngài. Song trọng tâm là dịp 12 tháng Giêng. Trước Cách mạng Tháng 8 năm 1945, trong lễ hội có lệ rước tượng Thành Hoàng từ đình Ngoài vào đình Trong thờ một đêm, sau đó rước trở lại. Đám rước long trọng trong sắc mầu của các loại quần áo: áo võ tướng, áo nậu, áo dài lương ... việc tế Thành Hoàng được tổ chức trang nghiêm, sau đó tổ chức hát ca trù, hát chèo và nhiều các trò vui dân gian khác ...

Lẽ vật dâng Thành Hoàng gồm mỗi giáp góp một mâm cỗ chay, trên có bánh 5 mầu dưới là thịt lợn đen, xôi, rượu. Đặc biệt trong lễ hội có lệ kiêng (kị) màu xanh và màu vàng vì theo truyền thuyết Thành Hoàng nằm mơ thấy một người mặc áo xanh, tay cầm cờ vàng tự nhiên xưng là Thiên sứ, quỳ trước sân nói với ông rằng: “Thượng Đế ban sắc sai đòi quan Tổng thống về triều" ông tỉnh lại bàng hoàng không ốm mà mất.

Đình Bùi Xá là một công trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo chạm khắc gỗ tinh tế còn tương đối đẹp và đồng bộ. Đình được làm theo kiểu tiền Nhất hậu Đinh gồm đại bái, trung đình và hậu cung. Di tích được khởi dựng vào thời Lê. Hình ảnh còn lưu giữ tại ngọc phả của làng. Toà đại bái 5 gian có diện tích 150 m2, lợp ngói ta, mái đao cong, đầu đao hình lá lật tạo dáng như thiếu nữ trong động tác múa đèn trông mảnh mai, uyển chuyển. Toàn bộ hệ thống đầu bẩy ở hiên đình là những tác phẩm nghệ thuật đặc sắc theo truyền thống chạm kênh bóng hình chim thú cách điệu, như rùa trùm lá sen, rồng uốn lượn trên nền hoa cúc, trúc hoá long, chuột rúc ... nét chạm nhỏ, săc, mềm như vẽ. Nhà kiến trúc kiểu tứ trụ còn 24 cột lim vững chắc, có chân tảng đá. Bức cốn trên các vì được chạm khắc tài tình như một bức tranh đồng quê chân thực đó là: long mã, bồ nông trong dáng mò nước, cá chép quẫy, rắn ngoi, tôm thổi kèn, ếch đánh đàn nguyệt, chim bay, cua bò, xen kẽ với hoa sen nở, trong lòng cánh hoa có một chú chim non dang chấp chới bay, bên trên có rồng cuốn. Sự kết hợp giữa động vật và thực vật tạo nên sự sống muôn thuở, nét chạm nhìn như xuyên suốt... Ở một bức xà đinh khác thì lại có cua trùm lá sen chỉ hở hai càng quắc vào nhau trong hoa văn hình sóng nước. Ngắm nhìn những bức cốn, xà đinh ở đây ta có cảm tưởng những con vật đang chuyển động, hoa lá rung rinh, mang đầy tính tả thực sinh động. Sự mở rộng đề tài đồng quê vùng đồng bằng Bắc Bộ ở đây cho ta thấy, các bức chạm tuy có niêm luật của điêu khắc đình làng nói chung nhưng xem cảm thấy lạc quan, thoải mái hơn. Về mỹ thuật, kĩ thuật đã góp phần tạo ra vẻ đẹp cần thiết có ý nghĩa làm giảm bớt sự chống chếnh đơn sơ của một vì kèo, tạo cho ngôi đình có thế thâm nghiêm lộng lẫy. Các gian chái hạ khoảng, mọi chi tiết kể góc, xà dùi, trụ, xà quân liên kết chắc chắn, với vật liệu gỗ lim toàn phần, phần nề ngoã khá hoàn chỉnh như bờ nóc, bờ xối đều được cài hoa chanh thanh thoát.

Tiếp giáp với toà đại bái là 5 gian trung đình, toà này có diện tích 74 m2, trùng tu năm Thành Thái nguyên niên (1889), mái lợp ngói vẩy cá, bờ nóc đắp rồng chầu: vì kiểu giá chiêng, bức cốn, đầu dư chạm kênh bong rồng cuốn có tô màu ở mắt, râu; hai đầu hồi xây bít đốc bằng gạch Bát Tràng. Toà này có tấm cửa võng chạm lộng tứ linh, tứ quý sơn son thiếp vàng.

Ba gian hậu cung có diện tích nhỏ hơn (33m2) được trung tu cùng thời với trung đình kiến trúc con chồng đấu sen. Nhưng cửa cấm của hậu cung lại được chạm khắc cầu kì lưỡng long chầu nguyệt và chim phượng. Bên trên cửa cấm còn bức đại tự sơn son ghi ba chữ “Võ Duy Dương" (nghĩa là võ nghệ tài giỏi nổi tiếng) ca ngợi Thành Hoàng là một võ tướng tài giỏi.

Đình Bùi Xá là nơi còn lưu giữ được tương đối đồ thờ tự quý giá. Tiêu biểu là hai cỗ kiệu  bát cống, 2 cỗ long đình, hệ thống đại tự, câu đối, ngai thờ, hương án nhỏ, bát hương, chuông đồng, 3 đạo sắc phong thời Nguyễn, thần tích thời Lê, đặc biệt là bia đá thời Lê (1558) và pho tượng Thành Hoàng kiến tạo vào thời Nguyễn, tượng Thành Hoàng làm bằng gỗ mít, tư thế ngồi xếp bằng tròn cao 80 cm, rộng 60cm, 2 tay đặt lên 2 gối, đội mũ cánh chuồn, mắt sáng, râu dài, dáng vẻ hiền từ mà oai linh, mặc áo võ quan có thắt đai hình hoa cúc dây, bụng và ngực trang trí hình rồng chầu. Đây là một trong những pho tượng nghệ thuật quý còn ở đình của tỉnh Hải Dương. Tượng được đặt trên ngai trong khám thờ trang trí tứ linh, tứ quý.

Đình Bùi Xá xưa kia nằm trong quần thể di tích bao gồm đình, chùa, văn chỉ... chứng minh một vùng quê văn hiến, giầu truyền thống cách mạng và văn hoá thể hiện bản chất siêng năng, chắt chiu, sống có cộng đồng, làng nước. Mặc dù chiến tranh và thiên tai tàn phá nhiều công trình văn hoá cổ ở đây, nhưng đình Bùi Xá vẫn tồn tại như một công trình nghệ thuât cổ tương đối hoành tráng, đồng bộ. Năm 1995 xã đã thành lập Ban quản lí gồm 7 người và đã lên kế hoạch tu sửa, dần dần trả lại quang cảnh cũ cho cho di tích như: mở rộng sân, cổng, cửa, cải tạo khu ao trồng cây xanh, mở rộng đường vào di tích ... Đình Bùi Xá đã được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật theo Quyết định số 04/2001/QĐ-BVHTT ngày 19/11/2001.

EMC Đã kết nối EMC