Đăng nhập

Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hải Dương

Thứ tư, 03/09/2025  |  English  |  中文

Quần thể di tích đền Cao, phường Lê Đại Hành, thành phố Hải Phòng

Quần thể di tích quốc gia đền Cao thuộc phường An Lạc, thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương (nay là phường Lê Đại Hành, thành phố Hải Phòng), có cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, có núi sông hòa hợp, các điểm di tích còn bảo lưu được nhiều yếu tố gốc, được xây dựng gần nhau, trong không gian địa văn hóa tâm linh gắn với nhiều sự tích, câu chuyện ly kỳ như: Giỗ thập nhị gia tiên, tục khất keo xin trùm, lễ vót tăm, khâu áo thánh, khai quang, thay tro đổi chiếu...Không chỉ vậy, quần thể khu di tích còn nằm trong không gian hành chính với nhiều địa danh gắn với cuộc kháng chiến chống Tống năm 981 như núi Cao Hiệu, Lò Văn, Nội Xưởng, Đồng Dinh...điều đó đã góp phần hình thành những giá trị riêng có, sự khác biệt với các di tích trong tỉnh, tạo nên nét đặc trưng cho khu di tích nơi đây cả yếu tố về vật thể và phi vật thể.

Quần thể gồm 05 điểm di tích: đền Cao, đền Cả, đền Bến Cả, đền Bến Tràng và đền thờ vua Lê Đại Hành được xây dựng gần nhau tạo thành một thiết chế văn hóa tâm linh. Trong đó, đền Cao là di tích trung tâm, tọa lạc trên đỉnh núi Thiên Bồng. Các điểm di tích còn lại cùng với đền Cao có mối liên quan mật thiết với nhau về không gian văn hóa, lịch sử, nhân vật thờ, sinh hoạt tín ngưỡng lễ hội, tục lê, tục hèm… Các điểm di tích được bao bọc bởi những quả đồi nhỏ xinh như ngọn Thiên Bồng, núi Bàn Cung, núi Cao Hiệu, núi Sơn Đụn, nền Bà Chúa…xa xa, có dòng Nguyệt Giang thơ mộng, về phía Nam có dãy An Phụ, phía Đông Bắc có cánh cung Đông Triều, phía Tây có dãy núi Kỳ Lân, Phượng Hoàng bao bọc, tạo nên một không gian tươi đẹp, kì vĩ. Trong mỗi di tích đều có cây xanh, cây cổ thụ tỏa bóng mát như để vươn dài chở che cho di tích.

Đền Cao: là ngôi đền thờ Thiên Bồng đại tướng quân Vương Đức Minh. Đây là ngôi đền chính, trung tâm của quần thể di tích. Dựa vào Hồ sơ lý lịch quần thể di tích Đền Cao cho biết di tích Đền Cao được xây dựng từ rất sớm. “…Năm Bính Thìn (1736), Hoàng Quý Hầu - Lãnh trấn đổng nhung cùng các quan quyên góp tiền của tu tạo tại cảnh quan đền thờ nguy nga tráng lệ trên đỉnh núi…"[trích tấm bia “Cảnh ngưỡng linh sơn phúc thần bi kí"dựng vào tháng 12 mùa Đông năm Bính Thìn- Vĩnh Hựu thứ 2 (1736) hiện lưu giữ tại di tích. Đến thời Nguyễn, di tích tiếp tục được “…trùng tu, tôn tạo thượng từ, dân xã đóng góp rất nhiều…"[Trích trong tấm bia “Trùng tu thượng từ"dựng vào ngày 2 tháng 5 năm Thành Thái thứ 12(1900) hiện lưu giữ tại di tích]. Công trình kiến trúc Đền Cao hiện nay là kết quả của lần trùng tu, tôn tạo này, kiến trúc kiểu chữ Đinh gồm ba tòa nhà: tiền tế, trung từ, hậu cung. Di tích Đền Cao tọa lạc trên đỉnh núi Thiên Bồng với thế đất “ Rồng cuộn, Hổ ngồi", dựa lưng vào dãy núi Voi, phía trước trông ra dòng Nguyệt Giang trong xanh, xa xa là dãy núi An Phụ cao uy nghi làm tiền án.

Đền Cả: Di tích Đền Cả là nơi thờ phụng Vương phụ, Vương mẫu và hai chị em gái trong 5 vị tướng họ Vương là “Đào Hoa Trinh Thuận công chúa"và “Liễu Hoa linh ứng công chúa" đã được phong là Mẫu nghi chí tôn thiên hạ. Đền có kiến trúc kiểu chữ Tam bao gồm 5 gian tiền tế, 3 gian trung từ và 3 gian hậu cung. Trên thượng lương gian Tiền tế của đền hiện nay vẫn còn dòng chữ “Bảo Đại nguyên niên trọng đông nguyệt cát nhật trụ thượng lương đại cát vượng" (đền được tu sửa vào tháng 11 năm 1926). Tòa tiền tế 5 gian, xây kiểu tường hồi bít đốc, mặt ngoài đắp nổi hình tượng chữ Thọ, bờ nóc đắp nổi bức phù điêu lưỡng long chầu nhật. Theo các nhà nghiên cứu nhận xét thì đây là một trong những đôi rồng đẹp nhất miền Bắc với hình dáng dữ tợn, đầu to, sừng chĩa ngược ra sau, mắt to, miệng há lộ răng nanh, thân uốn lượn năm khúc với độ cong lớn, hai đầu có lạc long ngậm bờ nóc. Tòa tiền tế và trung từ đều có kiến trúc xây tương tự nhau.

Đền Bến Cả: Đền Bến Cả là nơi thờ Đại tướng quân Vương Đức Hồng (Anh Vũ Dũng lược đại vương). Đền Bến Cả hay còn gọi là đền trần (lộ thiên) là một ngôi đền đặc biệt bởi đền không có mái che và có nhiều chuyện ly kì. Theo truyền thuyết xưa, khi người dân xây đền, công việc chuẩn bị chu đáo nhưng cứ xây lên lại đổ, xây lại đổ. Vào một đêm, có một vị thần hiện lên bảo rằng: “Nếu có thờ thì xây đủ 100 gian, không thì để thờ trần và nếu thờ trần thì làm một bình hương đá, một tráp đá, một đèn đá". Trung tâm thờ tự được kết cấu tường bao quanh, tựa như chiếc long ngai lớn, phía trước là hai sập thờ bằng đá xanh nguyên khối. Hai bên tả hữu trước đền là gác chuông, gác trống. Phía bên tả là nhà bia, tấm bia hình trụ chóp nón, đỉnh bằng, mái chạm vân xoắn, trán chạm canh sen kép nổi, diềm xung quanh trơn dựng vào năm Nhâm Tuất-  Khải Định (1992).

Đền Bến Tràng: Đền Bến Tràng cách Đền Cao 550m về phía nam. Đây là nơi tôn thờ Đại tướng quân Vương Đức Xuân - Dực thánh linh ứng đại vương. Di tích kiến trúc hình chữ Nhị (=) bao gồm 3 gian tiền tế đao tàu déo góc và một gian hậu cung. Tòa tiền tế được tôn tạo vào năm 2007, xây đao dĩ, chính giữa bờ nóc tạo hình một bức cuốn thư với chữ Thọ ở giữa, hai đầu bờ nóc có hai con kìm đuôi cuộn trơn vắt lên trụ, các đầu đao uốn cong đắp rồng. Kết cấu bộ khung chịu lực kiểu chồng rường giá chiêng được làm bằng chất liệu bê tông giả gỗ. Phía trên xà trung tâm được gắn bức hoành phi bốn chữ Hán: “Thánh trạch quân chiêm"(Mậu Dần niên trọng Xuân bái tiến), có nghĩa “Ân đức của thánh, dân chúng đều cùng hưởng"(Tháng 2 mùa Xuân năm Mậu Dần (1938) vái dâng.

Đền thờ Vua Lê Đại Hành: Đền Vua Lê Đại Hành toạ lạc trên núi Bàn Cung - nơi vua Lê Hoàn bàn luận việc quân cơ năm 981 và quyết định chọn Dược Đậu Trang ( An Lạc ngày nay) để đóng doanh đồn. Căn cứ vào tài liệu lịch sử, nơi đây đã từng có các dinh thự, hành cung và nhiều vị trí đồn trú cùng với các kho quân lương, vũ khí để sử dụng trong việc nuôi quân, tập luyện, bài binh bố trận trong các cuộc kháng chién chống giặc Tống. Những dấu tích còn lại đến nay vẫn còn mang tên theo lịch sử như: Cánh Đồng Dinh, Núi Gạo, Núi Tiền, Bàn cung... Năm 2003 bước đầu đã xây dựng được nơi thờ phụng Vua Lê Đại Hành với các hạng mục công trình: Đền thờ chính, sân đền, đường lên đền. Đền thờ chính được xây dựng theo kiến trúc hình chữ Đinh, 3 gian tiền tế, 1gian hậu cung. Trong đền có nhiều đồ thờ tế tự, các  hoành phi, câu đối, thể hiện rõ tài năng, đức độ và công lao to lớn của vua Lê Đại Hành.

Hiện nay quần thể di tích còn lưu giữ được nhiều cổ vật, di vật có giá trị gồm chất liệu giấy, gỗ, đá… đặc biệt là cuốn Ngọc phả bằng chữ Hán do Hàn lâm viện Đông các đại học sĩ Nguyễn Bính soạn vào năm Hồng Phúc nguyên niên (1572), 11 đạo sắc thời Nguyễn còn khá nguyên vẹn, 8 tấm bia đá thời hậu Lê và thời Nguyễn cùng hệ thống câu đối đại tự, có nội dung ca ngợi công lao các vị thánh được thờ.

Lễ hội truyền thống đền Cao được diễn ra từ ngày 22 đến 25 Giêng nhưng phong tục nghi lễ đã bắt đầu từ ngày 16 có sự gắn kết giữa đình, đền trong quần thể di tích, tăng thêm tính bền vững, tinh thần đoàn kết của cộng đồng nhân dân nơi đây, nhằm khơi dậy lòng tự hào, tinh thần tự tôn dân tộc, giáo dục truyền thống yêu nước, tiếp tục bảo tồn và phát huy các giá trị phi vật thể của địa phương cho các thế hệ kế tiếp. Đây là một trong những lễ hội truyền thống tiêu biểu của tỉnh Hải Dương nơi diễn ra nhiều nghi lễ độc đáo và tập tục thờ cúng đặc trưng, tâm linh huyền bí, các điểm di tích còn lưu giữ được một số yếu tố gốc, trong không gian địa văn hóa tâm linh gắn với nhiều sự tích câu chuyện dân gian li kì như: giỗ tổ thập nhị gia tiên, tục khất keo xin trùm, lễ vót tăm, khâu áo thánh, thay tro đổi chiếu… không chỉ vậy quần thể di tích còn nằm trong không gian hành chính gắn với nhiều địa danh trong cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược… Tất cả những điều đó đã góp phần hình thành lên những giá trị riêng có về văn hóa vật thể và phi vật thể của quần thể di tích đền Cao.

Quần thể di tích đền Cao được xếp hạng di tích quốc gia theo các Quyết định số: 1288VH/QĐ ngày 16 tháng 11 năm 1988, Quyết định số 601/QĐ-BVHTTDL ngày 02 tháng 3 năm 2018 và Quyết định số 890/QĐ-BVHTTDL ngày 15 tháng 4 năm 2022 của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch.

EMC Đã kết nối EMC