Đền Quốc được xây dựng ngay tại nhà cũ của Trần Quốc Chẩn, thuộc làng Tường Thôn, xã Kiệt Đặc, tổng Kiệt Đặc, huyện Chí Linh, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương (nay là phường Chu Văn An, thành phố Hải Phòng). Đây là di tích lịch sử gắn liền với việc tôn thờ Trần Quốc Chẩn - một tôn thất của nhà Trần từng có công mở mang bờ cõi phương nam, góp phần giữ vững độc lập dân tộc. Tên gọi di tích được gọi theo chức danh cao nhất của Trần Quốc Chẩn là Nhập nội Quốc phụ Thượng tể do vua Trần Minh Tông ban tặng vào năm Khai Thái thứ nhất (1324).
Theo sách: "Chí Linh phong vật chí" sau khi nhập nội Quốc Phụ thượng tể Trần Quốc Chẩn qua đời (1328) người ta đã sửa nhà cũ của ông thành đền thờ nên di tích còn có tên là: "Thượng tể Cổ Trạch" (tức nhà cũ của Thượng tể).
Căn cứ vào "Thần tích, thần sắc", "Đại Việt sử ký toàn thư, tập II" và "Chí Linh phong vật chí", đền Quốc Phụ là nơi thờ Trần Quốc Chẩn, là em vua Trần Anh Tông (1293 - 1314). Ông là người có đức, có tài được các quan trọng triều nể phục. Trần Quốc Chẩn nguyên là em vua Trần Anh Tông (1293 - 1314). Vào năm Hưng Long thứ nhất (1293) ông được phong Huệ Võ Đại Vương. Năm Nhâm Tý (1312) biên giới phía nam Đại Việt bị quân Chiêm Thành lấn chiếm. Nhận lệnh của triều đình, Trần Quốc Chẩn đã cầm quân lên đường đánh dẹp, trận này được tướng Đoàn Nhữ Hài hợp quân dụ hàng, quân Trần thắng lợi, không mất một mũi tên nào. Đến năm Đại Khánh thứ 5 (1318), Trần Quốc Chẩn cùng tướng quân Phạm Ngũ Lão tiếp tục đi đánh dẹp quân Chiêm thành giành được thắng lợi lớn, giữ yên bờ cõi đất nước. Do có nhiều công lao với triều đình, năm Khai Thái thứ nhất (1324), Trần Quốc Chẩn được vua Trần phong chức: Nhập nội Quốc phụ Thượng tể - chức quan đầu triều coi giữ Lục bộ Thượng Thư. Sử cũ còn ghi nhận Trần Quốc Chẩn không chỉ là người có tài trong việc cầm quân xung trận mà ông còn là người nổi tiếng đức độ, được các quan trong triều hết lòng nể phục. Ông là người được vua Trần Anh tông rất quý mến. Về sau vua Minh Tông lại lấy con gái của Quốc Chẩn nên càng tin dùng (Con gái của Quốc Chẩn là Hoàng Hậu Lệ Thánh).
Với công lao sự nghiệp to lớn cho đất nước, sau khi Quốc phụ qua đời ngày12 tháng 6 năm 1328, triều đình đã cho bản xã sửa lại Bến Đá ven sông Thái Bình và di tích “Thượng tể cổ trạch"- ngôi nhà cũ của Quốc phụ ở quê hương Chí Linh làm đền thờ nhằm tôn vinh tài đức vẹn toàn, công lao to lớn của ông.
Đến thời hậu Lê (TK XVII) di tích được các sử gia xếp vào hàng Chí Linh Bát Cổ, đại diện cho một trong tám loại hình kiến trúc cổ của vùng đất Chí Linh. Trải qua các triều đại, nhà nước phong kiến đều sắc phong cho Trần Quốc Chẩn, gồm 05 đạo sắc phong: Niên hiệu tự Đức thứ 6 (1853), niên hiệu tự Đức thứ 33 (1880), niên hiệu Đồng Khánh thứ 2 (1887), niên hiệu Duy Tân nguyên niên (1907), niên hiệu Khải Định thứ 9 (1924). Đền Quốc Phụ được xây dựng trên gò đất cao giữa cánh đồng rộng, chạy dài theo hướng Bắc - Nam. Theo thuyết phong thuỷ thế đất của đền theo hình "Kim xà" (Rắn vàng). Đền được trùng tu, tôn tạo nhiều lần vào thời hậu Lê (TK XVII - XVIII) và thời Nguyễn (TK XIX). Di tích có kiến trúc kiểu chữ Nhị gồm 05 gian Tiền tế và 3 gian Hậu cung.
Trước Cách mạng tháng 8/1945 đền Quốc Phụ do 3 xã Kiệt Đông, Kiệt Đoài và Tường Thôn quản lý. Năm 1951, quân Pháp từ bốt Trung Hà (Nam Hưng- Nam Sách) đã nã pháo vào khu đền làm các hạng mục công trình đổ nát, chỉ còn một phần hậu cung và một số đồ thờ do nhân dân sơ tán và cất giấu từ trước. Đến năm 1953 di tích bị đổ nát hoàn toàn. Năm 1958, nhân dân địa phương tự vận động công đức xây dựng lại Hậu cung gồm 01 gian nhỏ để ổn định việc sinh hoạt tín ngưỡng. Đến năm 1959, Chính phủ mở lớp cán bộ địa chính và thực hiện điều chỉnh địa giới một số địa phương. Trong dịp này, để chấm dứt tình trạng “xâm canh, xâm cư" khu Đền Quốc Phụ và 48 mẫu công điền được chia cắt về thôn Kinh Trung, xã Chí Minh quản lý.
Năm 1997-1998, thể theo nguyện vọng của chính quyền và nhân dân địa phương, được sự nhất trí của các cấp, các ngành chức năng, UBND phường Chí Minh đã huy động mọi nguồn lực đầu tư, khôi phục Đền Quốc Phụ ngay trên nền cũ làm nơi sinh hoạt tín ngưỡng chung của nhân dân, góp phần tôn vinh người có công với đất nước. Công trình gồm 5 gian Tiền tế và 3 gian Hậu cung, kiến trúc kiểu chữ Nhị đã góp phần tích cực bảo vệ di sản văn hóa dân tộc.
Theo điều lệ, hàng năm tại đền Quốc Phụ diễn ra 2 sự lệ vào ngày 5 - 8 tháng 3 âm lịch (Lễ Đại kỳ phước) và 12/6 âm lịch (ngày giỗ Quốc chẩn). Trong đó lễ hội chính diễn ra vào mùa Xuân. Từ sau Cách mạng tháng 8/1945 do nhiều nguyên nhân nên lễ hội truyền thống tại đền Quốc Phụ không được duy trì. Hiện nay việc sinh hoạt tín ngưỡng tại di tích từng bước được khôi phục nhằm bảo tồn và phát huy giá trị to lớn vốn có của di tích. Ngày 14/4/2003, Bộ Văn hoá - Thông tin (nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch) ban hành Quyết định số 15/2003/QĐ - BVHTT xếp hạng đền Quốc Phụ là di tích cấp quốc gia.