Đăng nhập

Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hải Dương

Thứ tư, 03/09/2025  |  English  |  中文

Di tích đền Gốm, phường Chí Linh, thành phố Hải Phòng

Đền Gốm thuộc khu dân cư Ninh Giàng, phường Cổ Thành, thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương (nay là phường Chí Linh, thành phố Hải Phòng). Đền còn tên gọi khác là Trần Nhân Huệ Vương Từ hay đền Trình, được xây dựng đầu thế kỷ XIV thờ Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư - Phó tướng Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư, một tướng hải quân kiệt xuất đã lập được nhiều chiến công hiển hách trong cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên thế kỉ XIII.

Theo sách "Lịch triều hiến chương loại chí" của Phan Huy Chú: Trần Khánh Dư là người huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Ông là Tôn thất nhà Trần nên được phong là Nhân Huệ Vương. Trần Khánh Dư là con của Thượng tướng Trần Phó Duyệt, sinh ngày 14 tháng 2 (không rõ năm sinh). Ngay từ nhỏ, ông đã nổi tiếng ham học và giỏi binh thư. Năm 1258, khi đế quốc Mông Cổ xâm lược Đại Việt, ông tham gia kháng chiến chống giặc và lập công lớn trong trận Đông Bộ Đầu, góp phần đẩy lùi quân xâm lược. Sau chiến thắng, ông được vua Trần Thái Tông phong tước “Thiên tử Nghĩa Nam". Sau đó, ông tiếp tục lập công trong việc trấn áp các cuộc nổi loạn miền núi và được phong chức Phiêu kỵ đại tướng quân, tước Thượng vị hầu. Tuy nhiên, do phạm tội, ông bị cách chức và phải về quê làm nghề chèo đò, bán than.

Đến năm 1282, trước nguy cơ giặc Nguyên Mông xâm lược lần thứ hai, vua Trần tình cờ gặp lại ông trong cảnh nghèo khó và cảm kích trước tài năng của ông nên phục chức, cho tham gia bàn kế giữ nước. Tại Hội nghị Bách quan năm 1282, Trần Khánh Dư thể hiện tài mưu lược, hiến nhiều kế sách hợp ý vua, được phong làm Phó tướng đô quân. Sau chiến thắng, ông tiếp tục được phong tước Hầu.

Năm 1287, trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ ba, ông được Trần Hưng Đạo giao nhiệm vụ chỉ huy chiến đấu trên biển. Tại trận Vân Đồn, ông chỉ huy đánh tan đoàn thuyền lương do tướng Trương Văn Hổ chỉ huy, giáng một đòn mạnh vào hậu cần của giặc, góp phần quyết định vào thắng lợi chung của toàn cuộc kháng chiến. Trần Khánh Dư không chỉ là một tướng giỏi cầm quân, mà còn nổi bật về khả năng luyện binh và hiểu sâu binh pháp. Ông viết lời tựa cho cuốn Vạn Kiếp tông bí truyền thư của Trần Hưng Đạo. Với nhiều công lao lớn trong ba cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông, ông được phong tước Nhân Huệ Vương. Về cuối đời, ông sống hưu trí tại Thái Ấp (Trần Xá), nơi phát triển nghề làm gốm. Ông khuyến khích dân chúng sản xuất, làm kinh tế địa phương hưng thịnh, nên làng còn gọi là làng Gốm. Ngày 15 tháng 8 năm Kỷ Mão (?) Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư qua đời. Ghi nhận công lao của ông, nhân dân địa phương đã xây dựng đền thờ tại đầu làng Gốm bên bờ sông Kinh Thầy lấy tên là "Nhân Huệ Vương từ".

Kết quả nghiên cứu khảo cổ học cho biết: làng Gốm nói chung và đền Gốm nói riêng được hình thành từ khá sớm và phát triển từ thế kỷ 14. Minh chứng vật chất là dải gốm sứ cổ có niên đại cuối Trần đầu Lê (TK 14-16) kéo dài ven bờ sông Kinh Thầy dài khoảng 450m, rộng 100m; Có tầng văn hóa dày trung bình là 2m. Gốm phế thải hiện còn hàng nghìn mét khối. Trải qua những thăng trầm của lịch sử, làng Gốm cũng như ngôi đền đã có nhiều thay đổi. Tương truyền vào thời hậu Lê (TK XVII - XVIII) đền Gốm được xây dựng theo kiểu chữ Đinh (J) gồm 3 lớp nhà: Đại bái 5 gian, Trung từ 5 gian và Hậu cung 3 gian. Bên trái là chùa Linh Giàng, bên phải là đình làng. Phía trước đền có một ngôi đền Thủy xây theo lối "chồng diêm, cổ các" hai lớp mái, nằm sát mé sông.

Năm 1884, sau khi ký hiệp ước chia cắt Việt Nam thành ba miền: Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Thực dân Pháp ép triều đình Huế phải triệt binh ở Bắc Kỳ. Ngày 20 tháng 2 năm 1884, chúng đánh chiếm Phả Lại và càn quét triệt phá các căn cứ khởi nghĩa của quân dân ta, ngôi đền đã bị tàn phá hoàn toàn trong thời này. Vào khoảng những năm 1933-1934, trước cảnh tiêu điều của ngôi đền cũ, ông Nhang Ký - một thương gia giàu có, hiếm con tại Hà Nội đã giàu tâm đức đầu tư trùng tu lại toàn bộ ngôi đền. Kết cấu kiến trúc được giữ nguyên như cũ gồm 3 lớp nhà. Riêng nhà Đại bái trước 5 gian thì được mở rộng thêm 2 gian đầu hồi để làm Miếu cô. Đây là lần trùng tu lớn nhất từ sau khi di tích được khởi dựng.

Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954) đền Gốm là một trong những địa điểm hoạt động của Ủy ban hành chính kháng chiến. Được sự hỗ trợ của bộ đội chủ lực, du kích địa phương đã tổ chức đánh độn thổ tại bờ sông Cụt và chặn đánh ca nô trên sông Kinh Thầy năm 1948 thắng lợi.

Năm 1952, nhằm thiết lập vành đai an toàn giao thông đường thủy, quân Pháp đã giật mìn đốt phá ngôi đền, cướp đi nhiều cổ vật quý. Hiện tại ngôi đền chỉ còn lại Hậu Cung là dấu tích kiến trúc cũ và 4 pho tượng thờ chính gồm: Thân Mẫu Trần Khánh Dư, Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư và hai công chúa thời Trần Nhân Tông bằng đồng. Căn cứ vào đặc điểm tạo hình, tượng có niên đại vào thời Nguyễn (TK 19). Phần còn lại kiến trúc Đại bái và Trung từ do nhân dân địa phương vận động công đức tu bổ, tôn tạo di tích từ năm 1990 đến nay.

Lễ hội Đền Gốm được tổ chức từ ngày 13/8 đến ngày 21/8 Âm lịch. Lễ hội hàng năm được đón hàng nghìn du khách thập phương và nhân dân địa phương thắp hương tri ân tưởng niệm Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư, thu hút hàng vạn người từ nhiều địa phương trở về trong cảnh: "Trên bến, dưới thuyền" đông vui nhộn nhịp. Căn cứ vào giá trị lịch sử và văn hóa di tích lịch sử đền Gốm được xếp hạng cấp Quốc Gia theo Quyết định số 226-QĐ/BT ngày 05/02/1994 của bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch). Đền Gốm với việc thờ tự Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư xứng đáng là một địa chỉ thu hút khách du lịch trong và ngoài nước đến tham quan, chiêm bái.

 

EMC Đã kết nối EMC