Đăng nhập

Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hải Dương

23/4/2023  |  English  |  中文

Di tích đền thờ Chu Văn An, phường Chu Văn An, thành phố Hải Phòng

Đền thờ Chu Văn An thuộc phường Văn An, thành phố Chí Linh (nay là phường Chu Văn An, thành phố Hải Phòng), thờ thầy giáo Chu Văn An - người Nhà giáo vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Chu Văn An sinh vào tháng 8 năm Nhâm Thìn, niên hiệu Trùng Hưng thứ 8 (1292) nguyên có tên là Chu An, tự Linh Triệt, hiệu Tiều Ẩn, thụy là Khang Tiết. Cha họ Chu tên Thiện, mẹ học Lê tên Chiêm. Thầy là người thôn Văn, xã Quang Liệt (nay thuộc thành phố Hà Nội).

Chu Văn An nổi tiếng là người thông kinh bác sử, không màng danh lợi, tài danh đức độ hơn hẳn so với các nho sĩ đương thời. Ngay từ thuở nhỏ, Chu Văn An đã sớm có nghị lực, tính tình thẳng thắn cương trực, chuyên cần học tập và nghiêm khắc sửa mình “tính ông liêm khiết và cứng cỏi. ở nhà thường ham thích đọc sách, học vấn tinh thông, tiếng tăm lừng lẫy xa gần". Mặt khác “ Chu An rất ít giao du, sửa mình trong sạch, bền giữ tiết tháo, không cầu danh lợi hiển đạt, ở nhà đọc sách, học vấn tinh thuần, tiếng gần đồn xa" “học trò đầy cửa". Ông thi đỗ Thái học sinh nhưng không ra làm quan mà đã về quê dựng một ngôi nhà nhỏ ở Huỳnh Cung, mảnh đất gần với thôn Văn để dạy học. Thầy đã nỗ lực giảng dạy, tạo điều kiện cho lý thuyết Khổng - Mạnh được khẳng định ở nước ta, trở thành khuôn vàng thước ngọc trong việc cai quản dân của giai cấp thống trị, nhưng chủ yếu dạy về chữ Nhân. Quan điểm giáo dục của Thầy là “Hữu giáo vô loại" tức là việc dạy học phải dành cho tất cả mọi người: “Việc dạy dỗ của thánh nhân không phân biệt người đến học thuộc loại nào", đồng thời “học phải đi đôi với hành". Theo quan niệm của thầy: “Học mới chỉ là có mắt, hành mới có chân. Có mắt, có chân mới tiến bước được, có biết mới có làm, có làm mới biết. Cái biết trong làm mới là cái biết thực sự, cái biết sâu sắc nhất", giáo dục văn hóa đi đôi với giáo dục làm người. Với quan niệm “tiên học lễ, hậu học văn", có thể nói thầy là người truyền dạy Nho học một cách trọn vẹn nhất vào nước ta.

Nghe danh thầy Chu tài năng và đức độ nên học trò từ khắp nơi tìm về trường Huỳnh Cung theo học rất đông, trong đó đã có rất nhiều học trò của thầy đã đỗ đạt cao, giữ được đức thanh liêm và làm nên được sự nghiệp lớn như Lê Quát, Phạm Sư Mạnh. Trình độ dạy học và đức độ thầy được người xưa ca ngợi như sao Đẩu, sao Khuê trên bầu trời Đại Việt đến độ vua Thủy Tề cũng cho con đến theo học thầy Chu Văn An. Tiếng thơm của thầy Chu Văn An vang đến tận kinh đô Thăng Long, vua Trần Minh Tông (1314-1329) vì cảm phục tài năng của thầy nên đã mời thầy làm Tư nghiệp Quốc tử giám dạy học cho Thái tử và con của các quan đại thần. Đầu tiên, vua Trần Minh Tông ủy thác cho Thầy Chu dạy dỗ thái tử Trần Vượng, thấy đây là cậu hoàng tử chăm học lại thông minh nên thầy gắng công dạy bảo, rèn giũa. Khi nhiếp chính Thái thượng hoàng Trần Minh Tông thấy lời lẽ của Vua Trần Hiến Tông rắn rỏi nên đánh giá rất cao công lao dạy dỗ của thầy. Tuy nhiên, vua Trần Hiến Tông chỉ trị vì đất nước được 12 năm và tạ thế khi ngài mới 23 tuổi. Sau khi vua Hiến Tông mất thượng hoàng Minh Tông lập Trần Dụ Tông lên ngôi. Với tư chất thông tuệ, học vấn cao minh cùng sự rèn cặp của thầy Chu nên trong những năm đầu sau khi nhiếp chính mọi việc chính sự đều tốt đẹp. 

Năm 1357, Thái thượng hoàng Trần Minh Tông băng hà, vua Trần Dụ Tông nắm quyền bính trong tay, vua thỏa sức vui chơi, trễ nải việc chính trị, bề tôi kẻ gian nhiều người lộng hành vi phạm dẫn đến đời sống nhân dân gặp muôn ngàn khổ cực, lầm than. Thầy Chu Văn An đã khẳng khái dâng Thất trảm sớ nêu đích danh tên tuổi và tội trạng của 7 kẻ nịnh thần cần phải chém đầu để chấn hưng đất nước. “Thất trảm sớ" của thầy giáo Chu Văn An không được vua Trần Dụ Tông chấp thuận, nguyện vọng lập lại nền thái bình thịnh trị cho muôn dân không thành, thầy đã “treo mũ ở cửa Huyền vũ" về ở ẩn, tiếp tục dạy học và ngao du thiên hạ. Khi đặt chân đến mảnh đất Chí Linh với cảnh đẹp non xanh thủy tú, có núi Phượng Hoàng bảy mươi hai ngọn, có núi Kỳ Lân kế bên, suối trong rì rào, có sông Thanh Lương uốn khúc đã lưu chân Thầy. Tại nơi đây thầy dựng nhà để dạy học, tìm cây thuốc chữa bệnh, làm thơ và viết sách để lại cho hậu thế. Các tác phẩm của thầy rất nổi tiếng như “Tứ thư thuyết ước", “Quốc âm thi tập", “Tiều ẩn thi tập"...

Những năm tháng về ở ẩn tại núi Phượng Hoàng, thầy giáo Chu Văn An lấy tên hiệu là Tiều Ẩn, sống giữa tùng xanh trúc biếc thầy tự ví mình như một tiều phu sống ẩn dật trong rừng. Tại đây thầy vẫn tiếp tục sự nghiệp dạy học và tương truyền rằng nơi thầy dựng nhà dạy học ngày ấy nay chính là Điện Lưu Quang. Điện lưu quang được coi là một trong những di tích đại danh lam thời Trần, nơi các nhà vua và quan đại thần đi kinh lý thường dừng chân thưởng ngoạn. Công trình được xây dựng khoảng đầu thế kỷ 14, trùng tu mở rộng vào thời Lê (TK18) và hoàn toàn đổ nát vào thời Nguyễn (TK19). Trong điện có thờ tượng thầy đây là một bức tượng quý giá được khai quật ở trong lòng đất, bên trên có bức đại tự với dòng chữ lớn “Vạn Thế Sư Biểu" tức người thầy của muôn đời.

Ngày 26 tháng 11 năm 1370, Thầy giáo Chu Văn An qua đời tại nhà riêng tại núi Phượng Hoàng. Khi hay tin thầy mất, vua liền cho quan triều đến dụ tế, tặng Văn Trinh Công, ban thụy là Khang Tiết và cho phối thờ tại văn miếu Quốc Tử Giám, xem thầy ngang hàng với các bậc thánh hiền như Khổng Tử, Chu Công ngày xưa.

Đền thờ thầy giáo Chu Văn An là công trình lớn nhất trong khu di tích Phượng Hoàng. Khởi nguyên của di tích là ngôi nhà đơn sơ mà khi lui triều về ở ẩn thầy đã dùng làm nơi nương náu qua ngày. Toàn bộ khu di tích nằm trọn trên triền núi phía Đông núi Phượng Hoàng trong hình thái tựa lưng vào núi, hướng ra phía Đông Nam với hai bên thế núi ôm vòng, ngôi đền như một viên ngọc nằm giữa một không gian hùng vĩ mà thơ mộng. Tuy nhiên trải qua thời gian và chiến tranh đến những năm 80 của thế kỷ trước ngôi đền đã bị phá hủy gần như hoàn toàn. Trước thực trạng đó, vào những năm 90 của thế kỷ trước, được sự nhất trí của chính quyền các cấp, Bảo tàng tỉnh Hải Dương, UBND phường Văn An và ngành giáo dục cùng Nhân dân địa phương đã tiến hành một cuộc đại trùng tu và tôn tạo lại đền. Đến năm 2008 đền thờ Chu Văn An đã trở thành quần thể kiến trúc bề thế trang nghiêm bao gồm: nghi môn nội, nghi môn ngoại, sân hạ, sân trung, sân thượng, vườn cây, hai nhà giải vũ, hai nhà bia, đền thờ chính cùng những bức phù điêu chạm long phượng vờn mây mang tính nghệ thuật rất cao.

          Hiện nay đền thờ chính tọa lạc trên thế đất cao, rộng theo kiến trúc chữ Đinh bằng gỗ lim. Vị trí xây dựng đền được coi là mắt của chim Phượng. Đền được xây dựng theo thuyết phong thủy xưa, tuân thủ chặt chẽ quy luật âm dương ngũ hành. Phía trước có núi Ngọc làm tiền án, phía sau có núi Phượng Hoàng làm hậu trẩm, bên tả là núi Kỳ Lân, bên hữu là núi Phượng Hoàng khiến cho ngôi đền như một viên ngọc nằm ở giữa sải cánh của chim phượng. Đền được thiết kế theo phong cách kiến trúc thời Nguyễn, chồng diêm hai tầng tám mái với 5 gian tiền tế và một gian hậu cung. Trong hậu cung có đặt bức tượng thầy giáo Chu Văn An được thờ trang nghiêm. Các bức y môn được sơn son thiếp vàng trang trí mỹ thuật theo hình tượng “rồng chầu hoa cúc mãn khai" . Hoành phi câu đối trong đền với nội dung ngợi ca tài đức của thầy và những quan điểm, tư tưởng dạy học của thầy Chu để mãi mãi lưu truyền với hậu thế. Cách đền 600m là đường lên lăng mộ Thầy, nơi an nghỉ cuối cùng của thầy giáo Chu Văn An. Theo các nhà phong thủy thì mộ thầy được đặt ở vị trí đỉnh của đầu chim phượng hoàng. Theo quan niệm dân gian, đầu phượng đội công lý và trở đức hạnh, tại nơi đó người quân tử sẽ thấu hiểu và thông suốt lẽ đời. Hiện nay lăng mộ của Thầy Chu Văn An đã được xây dựng khang trang, tố hảo bằng chất liệu đá xanh, phía sau có phù điêu hậu chẩm, phía trước có hương án, bên mộ có nghiên bút thể hiện đạo học mà thầy Chu xây đắp mãi mãi trường tồn với thời gian.

Với những giá trị to lớn về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật Di tích được Bộ văn hóa thông tin (nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch) xếp hạng cấp Quốc gia theo quyết định số 2161/QĐ-BVHTT ngày 11 tháng 10 năm 1998.